Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2019

[Quế Toàn] Tuyết (1)



Giang Tô, cuối đông năm 1924

Trời ngả chiều trên đất Thường Châu lạnh như băng. Tuyết trắng nhẹ như lông chim bay đầy trời. Khí hậu âm u làm trời chiều nhuốm màu nhá nhem, không tối không sáng...

Gã thiếu niên đơn độc ngửa mặt nhìn trời.

Đơn độc và tuyết, hai thứ đó như là kẻ sát thủ vô hình, lẳng lặng làm bị thương người ta.

*****

Quế Ngọc Hải không thích tuyết. Nơi quê nhà xa xôi của Hải ở phía Nam không hề có thứ lạnh lẽo như vậy. Vẻ trắng xóa mờ ảo kia chẳng làm cho con người ta quên đi được những kẽ tay nứt nẻ, những đợt gió khô khốc đến nhức thịt và một bụng đói cồn cào sau nhiều ngày lưu lạc.

Cũng như bao nhiêu trai tráng khác ở xứ An Nam dưới thời cai trị của người Pháp, chẳng có ai thoát khỏi cái số kiếp đi phu trong những đồn điền cao su hoặc gia nhập vào mấy đội lính đánh thuê xa xứ để cống hiến xương máu mình cho mẫu quốc. Riêng Hải sớm mất người thân, mới mười lăm tuổi đã bị nhét lên một con tàu viễn chinh để làm chân chạy vặt cho một tốp lính Đông Dương trên đường vận chuyển sang chiến trường ở xứ Ban - căng khỉ gió nào đấy. Hải trốn được sang một thuyền buôn của người Tàu, những tưởng thoát được tay lính Pháp thì còn có đường trở về quê tìm lại người thân.

Nhưng cũng chỉ như vậy thôi! Cùng một huyết thống có khi còn không dậy nổi tình thương, huống hồ không cùng nói một thứ tiếng mẹ đẻ. Hải suýt thì bị bọn thương lái người Hoa bán qua bán lại ở mấy chợ lao động ngoài bến cảng, trốn chui nhủi mười mấy ngày mới lạc tới tận đây.

Ngày còn ở quê, một đứa không cha không mẹ như Hải cũng chỉ dựa vào ăn cắp vặt để kiếm cơm qua ngày. Mà dẫu thế đi chăng nữa, nó cũng chỉ lấy đồ của bọn thầy Phán me Tây, bởi bọn đấy mới có tiền. Chứ cứ như mấy gã kéo xe với mấy thằng bán thuốc dạo ở quanh khu nó sống, cả đời có khi còn chẳng được cầm vào mặt bà đầm xòe đúc trên đồng bạc Đông Dương, thì có gặp ăn cắp cũng chỉ khổ lây thằng ăn cắp. Vả lại, cho dù Hải chẳng được học hành tử tế gì từ tấm bé, ngay cả cái tên Quế Ngọc Hải viết dọc viết ngang như thế nào cũng chưa từng thấy, nhưng Hải vẫn biết được làm người thì phải có quốc sỉ. Hải căm bọn Tây hay lấy mũi giày da đá đít dân mình, càng ghét bọn người mình mà lại hùa theo lũ khác loại, cho nên Hải chỉ thích lấy cắp của bọn đấy, mà thỉnh thoảng còn đem tiền lấy được chia cho bọn khố rách lố nhố ở ngoài chợ cũng trạc tuổi Hải, khiến cho bọn nó đều tôn Hải là "đại ca Quế". Giờ lâm vào cảnh lưu lạc nơi xa lạ, Hải chính phải dựa vào ngón nghề ăn cắp vặt kia mà sống qua được mười mấy ngày.

Tuyết rơi mỗi lúc một dày. Quần áo Hải đã ngấm nước từ lúc trưa, khi trộm đồ của người ta bị phát hiện, phải nhảy xuống hồ trốn đi. Vốn người ta cũng biết là Hải trốn dưới hồ, nhưng chỉ có hai cái bánh bao suông mà phải nhảy xuống nước giữa trời rét mướt để bắt cho được thằng ăn trộm thì thà để nó chết cóng với món đồ ăn cắp được còn hơn. Thế là người ta bỏ đi, còn bánh bao của Hải thì mềm nhũn dưới nước. Hải cầm hai cái bánh vắt khô nước rồi ăn, lại lang thang tiếp cho đến tận bây giờ. Thực ra nó chẳng còn cảm giác gì trên người cả, nước trên quần áo bị gió thổi kết lại thành băng cứng lạnh, chỉ có đôi chân trần sưng phồng đỏ rực là còn réo lên chút đau đớn.

Hải khuỵu gối trượt ngã trước thềm một quán ăn tỏa khói nghi ngút, có phần là ngã thật, có phần là cố tình ngã. Ngã thật là vì chân Hải không còn nhấc lên được khỏi tuyết nữa, hai mảnh xương bánh chè run run dính lại vào nhau líu ríu. Nhưng Hải cũng cố tình chọn chỗ ngã, vì hơi nước tỏa ra từ nồi nước dùng trong quán ăn kia tuy chỉ sượt qua người nhưng dường như cũng làm cho những mảng nước đóng băng trên áo Hải tan ra.

Hải vừa ngã xuống, một thằng chạy bàn trong quán đã chạy lại sổ ra một tràng tiếng Hoa chan chát, tay vung vẩy cái giẻ lau bàn ý muốn đuổi người. Hải lại gượng dậy lết sang một bên tránh khỏi cửa chính, nhưng vẫn là ở lì chỗ đấy không đi đâu nữa. Tên phục vụ chửi mãi không đuổi được người thì cũng thôi. Dân quốc lúc ấy mới qua cách mạng Tân Hợi được mười mấy năm, phong kiến suy vi lưu lạc khắp nơi, ngày nào chẳng có mấy tốp người từ nơi khác đến ăn trực nằm chờ trước mấy quán hàng. Trông Hải chỉ là một gã thiếu niên gầy ốm, chẳng những rách nát đến cực điểm, mà còn thở hắt ra như người sắp chết, tự dưng khiến cho người ta ngại động vào.

Hải ngồi tựa đầu vào vách tường phập phồng thở nặng, cố gắng hít vào trong mũi mùi hương quế rất nồng mà quán ăn nhà người ta dùng làm gia vị, hai mắt bỗng chốc nhòe đi. Trong ký ức mơ hồ của Hải, hình như hồi nó đâu đó bốn năm tuổi, khi còn chưa phải là đứa lông bông không có gia đình, nó từng được mệ mang ra Hà Nội cho ăn phở. Trong bát phở người ta có thả vào thứ gia vị mà mệ bảo là trong tên của nó cũng có, làm nó nhớ mùi quế mãi đến tận bây giờ. Dẫu rằng hình bóng mệ của nó thế nào giờ có lẽ nó cũng đã quên, nhưng cứ nhớ đến cái mùi ấy thì nó lại nhớ mệ, nhớ rằng quê của nó là cái nơi có tiếng gọi "mệ" ấy, rằng nó cũng từng có một gia đình như ai, và có khi gia đình nó còn khá giả... Mỗi lần nghĩ như thế lại khiến nó vui lên một chút.

Nhưng hôm nay thì khác, mùi quế phảng phất trong từng bông tuyết khiến nó thấy quê mệ sao mà xa quá. Khắp phố lác đác những người Tàu ngồi xe kéo mặc áo Tôn Trung Sơn hoặc trường sam dài đến gót, không có lấy một tiếng nói An Nam nào cứu vớt cho nó, dẫu chỉ là một tiếng chửi. Nó đói mà không còn sức để ăn cắp, lại không biết phải mở miệng ra xin người ta thế nào. Có lẽ nó sẽ nằm im ở đây và chết đi một lúc nào đó, trong nỗi đơn độc vô hạn và vô hạn những tuyết.

Thôi thế cũng được đi. Có lẽ chết lại là một cách để về nhà nhanh hơn đi tàu xe.

Hải nhắm mắt thoáng cười. Hóa ra cái lạnh tưởng đã đông cứng cả mặt mày trơ thành một pho tượng phẳng lỳ, mà vẫn có thể rách ra tạo nên một nụ cười dẫn lối cho những điều kỳ diệu, Phải, chỉ cần trong một nụ cười mà thôi.

Khi Hải mở mắt ra, trước mắt Hải là một đứa bé mặc trường sam bằng gấm trắng, khuôn mặt trắng như búp bê sứ đứng lẫn vào trong tuyết trắng Thường Châu. Cái khó quên nhất, chính là hàng lông mi dày nặng chập chờn trên hai mí mắt như đôi cánh bướm run rẩy vừa thoát kén. Cái khó quên nhất, chính là từ trong giọng nói thanh thanh thoát ra mấy âm tiết bằng thứ tiếng thân thuộc đến động lòng người:

- Người Việt sao...

Đó là lần đầu tiên Quế Ngọc Hải gặp Nguyễn Văn Toàn.

Đó cũng là lần đầu tiên trong suốt mười mấy năm cuộc đời mình, gã thanh niên cô khổ ấy thấy rằng cái chết chẳng những không còn là một sự giải thoát nhẹ nhàng, mà chỉ riêng việc nghĩ đến cái chết thôi cũng đã là một tội nghiệt không thể nào tha thứ. Giây phút ấy ở bên vệ đường, trong cơn tuyết lạnh cạnh quán ăn nọ, nếu Hải chỉ nhắm mắt một lần rồi vĩnh viễn không mở mắt ra nữa, làm sao có thể thấy được một tạo vật như vậy ở trên thế gian, làm sao thấy được điều sang quý nhường ấy với một cuộc đời chỉ luôn lẩn khuất giữa những chốn ti tiện, làm sao sẽ biết đến như thế nào là rung động đến tột cùng?

Hôm ấy là cuối mùa đông năm Giáp Tý, 1924, Thường Châu.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tấm da vẽ (6)

" Ba trăm năm trước, y vẫn là Trần Đình Trọng, chỉ không phải là một âm hồn quỷ ma phiêu tán như bây giờ. Ngài lại không phải là Bùi T...